Tên thật: Gioan Tông Đồ Trần Hồng Phương - Sinh năm:
1940 - Quê quán: An Nhơn Tây - Hóc Môn - Gia Định (nay
là Củ Chi, Tp. Hồ Chí Minh) - Hiện ở Khu Điều trị phong Bến
Sắn, Ấp 4, Khánh Bình - Tân Uyên - Bình Dương.
Tác phẩm: Thương quê (Nxb. Sài Gòn 1971) - Quần Tiên
Hội (Nxb. Văn Nghệ 1991) - Thơ Đơn Phương (Nxb. Văn
Nghệ 2009).
ĐT: 0650-3504-106395
CHẶNG ĐƯỜNG TÌM CHÂN LÝ
Trước năm 1967, tôi như một lữ khách lang thang không một hành trình nhất định, cũng giống như một con thuyền cô đơn chưa tìm ra bến đỗ nào như là một chỗ dựa thiêng liêng vững chắc cho tâm hồn. Nói thế không có nghĩa là tôi không có một niềm tin, một khuynh hướng nào trong cuộc sống.Vả lại, từ ngày biết mình vướng một trong”tứ chứng nan y”(theo cách gọi ngày xưa), trong tôi luôn như có màn sương mù phủ trùm quá khứ, bởi những câu nói bâng quơ gây mặc cảm nhức nhối của một thời “tiền căn hậu báo”, của kẻ tin vào cuộc sống liên đới gián tiếp đối diện quanh mình.
Sống lang thang trong một khuôn khổ hạn hẹp của một trại phong, không thân bằng quyến hữu, chỉ có cây rừng là thú tiêu khiển trong tháng năm dài trống rỗng, quạnh hiu. Có thể nói đó là cuộc sống tối tăm chẳng tìm đâu ra phương hướng… Rồi một ngày. tôi chợt nhận ra, sau ngõ ngách cuối cùng của định mệnh thoáng lóe lên một tia sáng, một niềm tin. Trái ngược với chu vi hiện hữu quá nhỏ bé mà mình đang sống là một thế giới vô biên của một đức tin, qua những câu mà tôi tình cờ đọc được trong một quyển sách kinh của một người bạn Công Giáo trao tặng cho tôi khi anh rời trại:”Đem yêu thương vào nơi oán thù - Đem thứ tha vào nơi lăng nhục - Đem an hòa vào nơi tranh chấp - Đem chân lý vào chốn lỗi lầm…” (Thánh Phanxicô).
Trên dải đất phì nhiêu của niềm tin vĩnh cửu, đã phác
họa trong tôi một nỗi khát khao thiêng liêng được một lần
vươn tới. Dầu rằng trước đó vài năm, tôi thỉnh thoảng có
theo bạn bè đồng cảnh đến nguyện đường mỗi dịp lễ lớn,
như Giáng Sinh chẳng hạn, và cũng một đôi lần dự thính
buổi giảng giáo lý do Soeur phụ trách. Nhưng đó chẳng qua
do sự hiếu kỳ, cũng như thể trước tôi hay đọc qua sách giáo
lý của các tôn giáo khác. Song ấy chỉ là dấu gạch nối nhỏ
nhắn, chưa có một ấn tượng rõ rệt nào gọi là “ngộ đạo”.
Những câu triết lý sâu thẳm, mang một thứ tình yêu thương
vô bờ bến của Thánh Phanxicô “…Đem thứ tha vào nơi lăng
nhục - Đem an hòa vào nơi tranh chấp…” mỗi ngày càng
thấm sâu vào tôi, lần hồi đã đem đến cho tôi một niềm tin,
một sức mạnh để dần dần vơi đi nỗi buồn bất hạnh luôn
vương vấn quanh mình. Có thể nói, đó là nguồn mạch ngọt
ngào, là ánh đuốc thiêng liêng, bước đầu đã dẫn đường tôi
đến cùng Thiên Chúa.
Kể từ đó, thực sự tôi bắt đầu tìm đọc những loại sách nói
về nguồn ơn cứu độ, nhất là sách viết về sự thương khó của
Chúa Giêsu. Cũng may mắn, khi rời viện. người bạn đồng
cảnh nói trên của tôi là anh Lê Văn Cơi đã tặng lại tôi cả
va-li sách, hầu hết là sách giáo lý Công Giáo. Song song
thời gian đó, mỗi tuần tôi thường xuyên theo học khóa giáo
lý do một Soeur đảm trách. Nhưng đây chỉ là một thứ tình
cảm thiêng liêng còn mờ ảo vừa chớm phát, chưa định hình
rõ rệt. Từ sự ngưỡng mộ cuộc hành trình khó khăn của Chúa
Giêsu trong chương trình cứu độ loài người, để đến được với
một đức tin đích thực vẫn còn một chặng đường khá xa, còn
nhiều thách thức cần phải vượt qua mới mong đến đích. Trải
qua thời gian ngót 4 năm đọc, học và tìm hiểu về nguồn
ơn cứu độ của Thiên Chúa, lặn lội trên con đường dài, tuy
chẳng gai chông cũng không thể gọi là bằng phẳng. Những
hố sâu, những ụ đắp trong tâm hồn dẫu vô hình, nhưng để
vượt qua được nó lại không kém phần gian nan, thách thức.
Nhưng với thời gian, với nhiệt huyết và ơn soi sáng dồi dào 397
bởi tâm thành cầu nguyện, để cuối cùng vào mùa Phục Sinh
1967, tôi được lãnh nhận bí tích rửa tội, chính thức trở thành
một thành viên trong cộng đồng con Thiên Chúa. Cũng kể
từ đó, những chuyện ngồi bó gối trách than cho số phận
mình như ngày nào, hay thể hiện trong văn thơ cũng ít khi
diễn ra, bởi niềm tin thiết tha và mãnh liệt vào nguồn ơn
cứu độ. Thay vào đó là những giờ suy ngẫm, cầu nguyện,
với phương châm dần hình thành: “Gò chỗ tim nứt rạn - trỗ
hằng loạt tinh hoa - dâng lên Đức Chúa Cha - tràng kinh
thêu toàn nhạc…” hoặc “…Ta nghiền nát phong ba - chảy ra
thơ cầu nguyện”… đã điền vào chỗ trống của cuộc đời.
Gần nửa thế kỷ trôi qua, dầu đương đầu không ít khó
khăn trong cuộc sống, có lúc lang thang trôi dạt khắp đó
đây, lắm khi đói khát dật dờ như bóng ma lạc lõng, cũng có
lúc cảm tưởng quá khứ hầu như mờ dần trong ký ức, nhưng
đức tin vẫn là khối hành trang không thể thiếu vắng cho
cuộc đời. Bao giờ tôi cũng xem đây là điểm tựa quý giá
nhất trong cuộc hành trình dương thế mà Thiên Chúa đã
ban cho, hiện tại và tương lai luôn vẫn thế… Ánh sáng hào
quang của niềm tin vĩnh cửu, nếu không gắn liền được với
hơi thở thì cuộc sống sẽ vô vị và tuyệt vọng biết bao. Cho
nên, tôi ước mong cuộc sống tâm linh trong vòng tay thương
yêu của Thiên Chúa sẽ mãi mãi trường tồn, và không bao
giờ so le, vướng bận, mỏi mòn như thể chất trần gian mà tôi
đang mang lấy.
Tịnh Bần Viên Bến Sắn, đêm 12-03-2010
ĐƠN PHƯƠNG