NGƯỜI VIỄN KHÁCH
Tên thật: Matthêô Nguyễn Văn Khôi - Bút danh: Người Viễn Khách - sinh ngày: 13-10-1951 - tại
Xuân Phương, Phước Sơn, Tuy Phước, Bình Định - Thụ phong linh mục ngày 10-5-1989 - Chánh xứ Nam
Bình, giáo sư thỉnh giảng tại Đại Chủng Viện Sao Biển Nha Trang. -– 2000-2005: Du học tại Đại Học
Giáo Hoàng Urbaniana, Roma. Học vị: Tiến sĩ thần học luân lý. - 2005-2010: Chánh xứ Chính tòa Qui
Nhơn, quản hạt Bình Định -Ngày 4-2-2010: Được tấn phong Giám mục tại Qui Nhơn. Khẩu hiệu giám
mục: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng tôi” (2Cr 5, 14).
Điện thoại: 0905-532-238
Email: mtnvkhoi@gmail.com
NỖI LÒNG VIỄN KHÁCH
Sau bảy năm tu học tại Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đà Lạt, cuối tháng 8 năm 1977, khi
Học Viện bị giải thể, tôi cùng với các bạn phải ngậm ngùi rời xa mái trường thân yêu đã bao năm
gắn bó, để ra đi với tờ giấy nhỏ trong tay do chính quyền thành phố Đà Lạt cấp: “Về gia đình
làm ăn sinh sống chờ ngày chiêu sinh”!
Thế là mỗi người bắt đầu bước vào một chân trời vô định với một tương lai mờ mịt. Lý
tưởng linh mục hầu như tan vỡ hoàn toàn. “Tương lai đang còn mang dấu hỏi, hiện tại đen ngòm
một chấm than!”. Trong bóng tối mịt mờ như sờ được bằng tay ấy, tôi quyết định phải chọn cho
mình mot cuộc hành trình miên viễn như tổ phụ Abraham ngày xưa, và chấp nhận lên đường như
một “người viễn khách” để đáp lại tiếng gọi của Chúa, một tiếng gọi khác xa những gì mình chờ
đợi.
Không làm linh mục được thì tôi vẫn cứ sống lý tưởng ấy theo cách của tôi. Tôi quyết
định tham gia lao động trong hợp tác xã nông nghiệp tại Gò Thị quê hương tôi, vừa để nuôi sống
cha mẹ già, vừa để chia sẻ cuộc đời lam lũ của bà con trong xóm. Cuộc sống thật nhiều vất vả từ
sáng sớm đến tốt mịt, dãi nắng dầm mưa, với những cộng việc đồng áng nặng nhọc theo tiếng
kẻng chát chúa.
Nhiều người cảm thấy ái ngại cho tôi, không biết tôi sẽ kiên trì với lý tưởng được bao lâu,
nhưng họ vẫn khích lệ và âm thầm cầu nguyện cho tôi. Phần tôi, tôi cảm thấy vui khi được sống
trong cùng hoàn cảnh với họ và tìm cách giúp đỡ họ trong đời sống đức tin. Sáng sớm tôi rủ
nhiều người đi lễ. Trở về tôi cùng mọi người ra đồng. Chiều tối tôi rủ người ta đến nhà thờ đọc
kinh. Sau giờ kinh, tôi kể chuyện Thánh Kinh, hạnh các thánh, cổ tích đông tây, cho các em thiếu
nhi. Cứ thế, từ ngày này sang ngày khác, từ tháng này sang tháng khác và từ năm này sang năm
khác, chẳng có gì khác, ngoài những câu chuyện mỗi ngày mỗi khác để thu hút các em thiếu nhi
đến nhà thờ đọc kinh.
Tôi tận dụng những lúc rảnh rỗi ít oi vào buổi trưa hay về ban đêm và ngày Chúa nhật để
đọc sách, dọn bài suy niệm và giáo trình thần học để dạy các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Qui
Nhơn, dạy giáo lý dự tòng và hôn nhân, dạy bình dân học vụ cho những người không biết chữ
trong xóm và đi thăm viếng các gia đình.
Tuy nhiên, không có thử thách nào lớn cho bằng thử thách của thời gian. Thời gian cứ
lặng lẽ trôi qua mà không hề đưa ra một câu trả lời hay ướm thử một hứa hẹn, cho dù một hứa
hẹn mong manh. Thỉnh thoảng nghe tin các bạn từ phương xa: trừ một vài anh em may mắn được
làm linh mục ít lâu sau ngày chia tay, số còn lại kẻ thì chuyển hướng, người thì ra đi khỏi nước,
những người vẫn trung thành với ơn gọi tại quê hương ngày càng ít ỏi và đang vật lộn với cuộc
sống khó khăn. Có lúc “người viễn khách” cảm thấy “chồn chân”, hoang mang chán nản như đi
trong buổi hoàng hôn đang xóa mờ dần chân trời lý tưởng: “Lý tưởng ngày qua tươi sáng quá,
làm sao giữ được trước phong ba!”
Vào các buổi tối, sau giờ kinh chung tại nhà thờ hay tại gia đình, tôi thích ngồi một mình
bên ngọn đèn dầu nhỏ để cầu nguyện và suy nghĩ về cuộc sống, về ơn gọi. Rồi một hôm bỗng
dưng tôi nảy ra ý tưởng cầu nguyện và suy nghĩ bằng những vần thơ, vừa để lưu lại những tâm
tình và cảm xúc, vừa để có dịp chia sẻ với bạn bè. Những bài thơ đã ra đời trong cuộc kiếm tìm
Thiên Chúa và ý nghĩa của cuộc sống. Và tôi cảm nghiệm được rằng chính những vần thơ ấy đã
nâng đỡ tôi rất nhiều trong thử thách đức tin và ơn gọi.
Giờ đây, khi nhìn lại cuộc đời trong thời gian thử thách ấy, tôi mới cảm nghiệm được
rằng Thiên Chúa đã muốn dẫn đưa tôi đi qua những ngõ ngách quanh co, những con đường sỏi
đá, dưới nắng gắt mưa dầm, thậm chí trong những đường hầm tăm tối dường như không có lối
ra. Nhưng có một điều tôi cảm nghiệm được là Ngài luôn ở bên cạnh và nâng đỡ tôi. Ngài có thể
vẽ đường thẳng bằng những nét cong, như người ta vẫn thường nói, và tôi xác tín rằng mọi sự
đều sinh ích cho những kẻ Ngài kêu gọi, như lời Thánh Kinh đã dạy (x. Rm 8, 28).
NGƯỜI VIỄN KHÁCH